Đặc điểm Gà rừng Việt Nam

Mô tả

Gà rừng Việt Nam là phân loài chim lớn, cánh dài 200-250mm, nặng 1-1,5 kg. Chim trống có lông đầu, cổ màu đỏ da cam, lưng và cánh đỏ thẫm, ngực bụng và đuôi đen. Chim mái nhỏ thua chim đực và toàn thân màu nâu xỉn. Mắt nâu hay vàng cam. Mỏ nâu sừng hoặc xám chì. Mỏ thịt đỏ. Chân xám nhạt. Nhìn bề ngoài, gà rừng đẹp mã, lông đỏ, chân chì, cựa dài nhọn, đôi tai trắng phau. Gà rừng trưởng thành cân nặng khoảng 8 lạng, dáng dấp thon gọn và nhanh nhẹn. Gà rừng thường bị bệnh hô hấp vào mùa mưa[1].

Có những con gà rừng có tai trắng, chân chì với màu lông tía sặc sỡ. Gà rừng khác gà ta ở nhiều chi tiết như lông gà rừng có màu sắc rực rỡ hơn, đẹp hơn, chân màu đen, tích trắng, mồng lá nhỏ[1]. Phổ biến nhất trong các loại gà rừng đang được nuôi làm gà kiểng là gà đỏ với tai trắng, màu lông sặc sỡ, cựa nhọn, dáng thon. Con đực khi trưởng thành có sải cánh dài 20–25 cm, màu lông đỏ tía, nặng từ 1 đến 1,5 kg, trong khi con cái chỉ có màu lông nâu xỉn và kích thước nhỏ bé hơn[2].

Thành phần dinh dưỡng trong thịt gà rừng thấy có chứa 24,4% protid, 4,8% lipid, 14 mg% Ca, 263 mg% P, 0,4 mg% Fe và một số vitamin. Thịt có vị ngọt, tính ấm. Theo kinh nghiệm dân gian, thịt gà rừng được dùng chữa chứng xích bạch đới, tả lỵ lâu ngày, suy yếu sinh lý dưới dạng nấu ăn, thịt gà rừng có thể Chữa ngộ độc nhãn rừng, Chữa gân xương đau mỏi, chân tay run rẩy là chân gà (hay nhất là chân gà trống) và Sơn kê là tên dược liệu của thịt và chân gà rừng[3]

Tập tính

Gà rừng sống định cư và ở trong nhiều loại rừng. Môi trường sống thích hợp là rừng thứ sinh gần nương rẫy hay rừng gỗ pha giang, nứa. Sống đàn hoạt động vào 2 thời điểm trong ngày như sáng sớm và xế chiều. Buổi tối gà tìm đến những cây cao dưới 5m có tán lớn để ngủ. Gà thích ngủ trong các bụi giang, nứa, có nhiều cây đổ ngang. Mùa sinh sản của gà rừng bắt đầu vào tháng 3. Vào thời kỳ này gà trống gáy nhiều lúc sáng sớm và hoàng hôn. Một con đực đi với nhiều con mái. Tổ làm đơn giản, trong lùm cây bụi, Mỗi lứa đẻ 5 -10 trứng, ấp 21 ngày. Con non đẻ ra khoẻ.

Gà rừng rất tinh khôn, chỉ cần một tiếng động nhẹ là chúng bay đi chứ không bao giờ bén mảng đến chỗ nguy hiểm nữa. Chúng nhút nhát nhưng khôn lanh, dường như đánh hơi được bẫy, thấy là tránh xa. Tổ gà rừng rất khó tìm, chúng thường đẻ trứng ở bãi cỏ rậm rạp và ngụy trang kín đáo[4].

Từ môi trường tự nhiên thành môi trường nuôi ở nhà rất khó đối với gà rừng. Để quen với cách nuôi thả vườn, ban đầu người nuôi gà nhốt từng lồng riêng sát bìa rừng, sau đó mới thả rông. Thức ăn chính là côn trùng, sau đó rồi tập ăn dần cho gạo, cám, cỏthóc.[4]

Tập tính ăn

Gà rừng ăn các loại quả mềm như quả đa, quả si, hạt cỏ dại, cây lương thực, thóc ngô, các loài động vật nhỏ, mối, kiến, giun đất, châu chấu, nhái... Trong điều kiện nuôi nhốt, thức ăn cho chúng khi còn nhỏ là cám công nghiệp, khi lớn lên chủ yếu là lúa, ngoài ra là bắp, đậu xanh[1]. Nhìn chung, thức ăn chủ yếu cho gà rừng là cỏ, côn trùngthóc[5][6].

Ngoài ra, nguồn thức ăn chính của gà rừng còn có thể kể đến là mối. Mối giàu protein giúp gà hấp thụ chất dinh dưỡng tốt, lớn nhanh. Ngoài thức ăn tự nhiên, trong khi nuôi nhốt còn thực phẩm công nghiệp như bột cám, bắp xay, rau, tép khô cho gà ăn bổ sung. Gà rừng có sức đề kháng cao, ít bệnh, tuy nhiên vì đặc tính hoang dã nên khi còn nhỏ, nhất là trong vòng 15 ngày tuổi, người nuôi gà có khi phải tập cho gà ăn trên tay để thuần hóa[7].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Gà rừng Việt Nam http://www.itis.gov/servlet/SingleRpt/SingleRpt?se... http://www.ncbi.nlm.nih.gov/Taxonomy/Browser/wwwta... http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/khoi-nghiep... http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/khoi-nghiep... http://www.catalogueoflife.org/col/details/species... http://www.eol.org/pages/1231853 http://nld.com.vn/cong-doan/trieu-phu-ga-rung-2014... http://danviet.vn/chan-dung-nha-nong/nuoi-ga-rung-... http://infonet.vn/bac-trieu-moi-con-ga-rung-hiem-p... http://suckhoedoisong.vn/y-hoc-co-truyen/kinh-nghi...